VẸO CỘT SỐNG
BS.CKII
Nguyễn Văn Khoan.
Nhìn ngang Nhìn từ trước Nhìn từ sau CỘT SỐNG BÌNH THƯỜNG |
Vẹo cột sống là gì ?
Là
sự cong vẹo bất thường của cột sống. Có nhiều loại tùy theo nguyên nhân và độ
tuổi phát hiện bệnh. Tùy theo mức độ nặng của đường cong, nguy cơ tăng nặng thêm mà
vẹo cột sống có thể được điều trị bằng cách điều chỉnh tư thế và theo dõi, mang
áo nẹp chỉnh hình, hoặc mổ nắn chỉnh.
Nếu
cột sống bị cong gập ra trước quá mức, gọi là còng cột sống; cột sống cong ngửa ra sau quá mức, gọi là ưỡn cột sống. Nhiều trường hợp cột sống
bị biến dạng kết hợp nhiều kiểu: vừa vẹo, vừa xoay vặn xoắn; vừa vẹo vừa còng;
hoặc vừa vẹo vừa ưỡn …
Vẹo
cột sống gặp ở bé gái nhiều gấp đôi bé trai, thường gặp nhất là sau 10 tuổi.
Hình
X quang EOS bệnh nhân nữ, 13 tuổi bị vẹo cột sống do bệnh lý thần kinh (di chứng
não úng thủy-bệnh đầu nước). Cột sống bị vẹo rất nặng: N3-TL2 = 98 độ. Cột sống
vừa bị vẹo vừa bị xoay và ưỡn đoạn thắt lưng: ngực 11 – Thiêng 1 = 65,2 độ. Làm
biến dạng nặng lồng ngực ảnh hưởng chức năng tim và hô hấp. Bệnh nhân này có
kèm theo bệnh tim bẩm sinh đã mổ.
Nguyên nhân gây vẹo cột
sống ?
Khoảng
80% trường hợp vẹo cột sống là vẹo cột sống vô căn (Idiopathic scoliosis), tức
không tìm ra được nguyên nhân. Trong đó có 3 loại được phân theo 3 nhóm tuổi khởi
phát bệnh: (1) dưới 3 tuổi gọi là vẹo cột sống vô căn tuổi ấu nhi (infantile
idiopathic scoliosis); (2) từ 3 – 10 tuổi gọi là vẹo cột sống vô căn tuổi thiếu
niên (juvenile idiopathic scoliosis); (3) trên 10 tuổi gọi là vẹo cột sống vô
căn tuổi thành niên (adolescent idiopathic scoliosis).
Những
nguyên nhân khác gây vẹo cột sống gồm:
1/
Vẹo cột sống chức năng (functional scoliosis): cột sống bình thường nhưng bị
cong vẹo do sự bất thường ở một nơi nào đó trên cơ thể, ví dụ như do tật chân
cao-chân thấp, do co thắt cơ lưng …
2/
Vẹo cột sống thần kinh – cơ (neuromuscular scoliosis): sự bất thường xảy ra
trong quá trình hình thành xương sống. Trong quá trình phát triển thai nhi, sự
tạo thành xương sống không hoàn chỉnh hoặc các đốt sống không tách rời nhau được.
Những trẻ bị vẹo cột sống này thường có kèm theo các bệnh lý khác, bao gồm các
khuyết tật bẩm sinh, loạn dưỡng cơ, bại não hoặc bệnh Marfan. Những đứa trẻ
này, cột sống thường bị uốn cong hình chữ C và yếu cơ 1 bên, không thể tự giữ
tư thế đứng thẳng được. Nếu vẹo cột sống xuất hiện ngay lúc mới sanh ra, gọi là
vẹo cột sống bẩm sinh (congenital scoliosis). Loại này nặng hơn các loại khác rất
nhiều và cần phải can thiệp điều trị sớm hơn.
3/
Vẹo cột sống do thoái hóa (degenerative scoliosis):
Các
loại vẹo cột sống khác chỉ gặp ở trẻ nhỏ và tuổi teen (dưới 20 tuổi), vẹo cột sống
do thoái hóa chỉ xảy ra ở người lớn tuổi do biến đổi thoái hóa. Do sự suy yếu của
hệ thống dây chằng và các cấu trúc mô mềm khác quanh cột sống, kết hợp với sự tạo
các gai xương bất thường gây nên sự cong vẹo bất thường của cột sống. Vẹo cột sống
thoái hóa cũng có thể do loãng xương, gãy lún đốt sống hoặc do thoái hóa đĩa đệm.
Hình X quang trước và sau mổ cùng một bệnh nhân bị vẹo cột sống thắt lưng do thoái hóa. Mổ nắn chỉnh, cố định dụng cụ 8 ốc chân cung, 2 thanh nối dọc, hàn liên thân đốt.
4/
Vẹo cột sống do các nguyên nhân khác (other causes): nhiều nguyên nhân khác có
thể dẫn tới vẹo cột sống như bướu xương sống: bướu xương dạng xương (osteoid
osteoma). Đây là bướu lành có thể ở cột sống và gây đau. Vì khối u gây đau nên
bệnh nhân đi nghiêng về bên kia để giảm chịu lực tì nén bên đau, lâu ngày dẫn đến
biến dạng vẹo cột sống.
Các triệu chứng của vẹo
cột sống ?
Triệu
chứng thường gặp nhất là nhìn thấy cột sống cong vẹo bất thường, thường được
phát hiện bởi bạn bè hoặc những người trong gia đình. Cột sống cong vẹo từ từ
nên ít ai để ý, cho tới khi nó trở nên quá nặng mới thấy. Vẹo cột sống cũng có
thể được khám sàng lọc phát hiện trong trường học. Có thể phát hiện khi thấy áo
quần mặc không vừa vặn như trước hoặc thấy ống quần bên thấp-bên cao.
Vẹo
cột sống có thể làm đầu lệch sang 1 bên hoặc 2 vai, 2 hông mất cân xứng, bên thấp-bên
cao. Vẹo cột sống có thể làm lồng ngực hoặc lưng bên thấp-bên cao. Nếu vẹo nặng
sẽ làm cản trở các hoạt động của tim, phổi (suy tim, hạn chế hô hấp); có thể
làm hơi thở ngắn hoặc đau ngực. Hầu hết vẹo cột sống không gây đau nhưng cũng
có loại gây đau lưng. Hơn nữa cũng có thể bệnh nhân đau lưng do những nguyên
nhân khác. Do đó, bệnh nhân cần được bác sĩ thăm khám cẩn thận.
Nhìn từ phía sau bệnh nhân thất 2 chậu hông bên cao bên thấp, hai vai bên cao bên thấp, lưng và thắt lưng biến dạng bên lồi bên lõm.
Chẩn đoán vẹo cột sống như thế nào?
Khi
có những triệu chứng như trên hoặc nghi bị vẹo cột sống, nên đi khám bác sĩ
chuyên khoa cột sống. Thường bác sĩ sẽ đưa ra những câu hỏi tầm soát như: gia
đình có ai bị vẹo cột sống không ? có đau lưng, yếu chân hoặc các vấn đề khác
liên quan đến cột sống không ? Bác sĩ sẽ quan sát hình dáng cột sống, 2 vai, 2
chậu hông từ bên hông, từ trước và từ sau. Tìm những biến đổi trên da có liên
quan đến các khuyết tật bẩm sinh. Quan sát ở tư thế cúi người ra trước tối đa,
xem có sự mất cân xứng 2 bên không ? Khám tầm vận động và độ mềm dẻo của cột sống
cũng như các dấu hiệu tổn thương thần kinh, tủy sống. Đo chiều cao, cân nặng để
đánh giá tình trạng dinh dưỡng và để so sánh với lần tái khám sau đó.
Dự
hậu khả năng tiến triển nặng thêm của vẹo cột sống thông qua giai đoạn dậy thì,
các dấu hiệu dậy thì của trẻ, tuổi bắt đầu hành kinh …
Bệnh nhân nữ 14 tuổi bị vẹo cột sống vô căn tuổi thành niên
(adolescent idiopathic scoliosis): Nhìn từ phía sau bệnh nhân thất 2 chậu hông bên cao bên thấp, hai vai bên cao bên thấp, lưng và thắt lưng biến dạng bên lồi bên lõm. Cho bệnh nhân cúi lưng ra trước thấy phần lưng bên phải nhô cao so với bên trái cho thấy bệnh nhân có bị vẹo cột sống cấu trúc (Nghiệm pháp Adam's forward bend test (+)).
Bệnh
nhân được cho chụp X quang cột sống từ cổ đến khung chậu thẳng và nghiêng để đo
độ cong vẹo cột sống (đo góc Cobb, góc còng lưng, góc ưỡn thắt lưng). Chụp X
quang tư thế ngiêng trái và phải tối đa để dư đoán độ mềm dẻo của cột sống. Nếu
phát hiện có các dấu hiệu tổn thương thần kinh, tủy sống, bác sĩ sẽ cho chụp cộng
hưởng từ, CT scan để đánh giá các tổn thương liên quan đến vẹo cột sống.
Cuối
cùng, bác sĩ sẽ đưa ra chiến lược điều trị và kế hoạch theo dõi diễn tiến bệnh
tùy thuộc mức độ nặng nhẹ của đường cong, bệnh lý kèm theo và thể trạng của bệnh
nhân.
Điều trị vẹo cột sống
như thế nào?
Điều
trị vẹo cột sống dựa vào mức độ vẹo và các nguy cơ làm vẹo nặng thêm. Có những
loại vẹo có nhiều nguy cơ tăng nặng hơn các loại khác, vì thế việc phân loại vẹo
cột sống sẽ giúp có hướng điều trị đúng. Có 3 chiến lược điều trị chính là: (1)
quan sát theo dõi diễn tiến bệnh (observation); (2) nẹp thân (bracing) và (3) mổ
nắn chỉnh vẹo (surgery).
1/
Vẹo cột sống chức năng (functional scoliosis): cột sống bị cong vẹo do bất thường
một nơi nào đó trên cơ thể. Nên chỉ điều chỉnh những bất thương đó. Ví dụ vẹo cột
sống do chân thấp-chân cao, người ta điều chỉnh cho 2 chân dài bằng nhau hoặc
cho bệnh nhân mang giày bên cao-bên thấp ngược lại để bù trừ. Không điều chỉnh
trực tiếp lên cột sống.
2/
Vẹo cột sống do bệnh thần kinh cơ (neuromuscular scoliosis): do sự phát triển bất
thường của xương sống. Loại này có rất nhiều nguy cơ tăng nặng. Hầu hết bệnh
nhân được phẫu thuật ngay khi có dấu hiệu tiến triển nặng thêm.
3/
Vẹo cột sống vô căn (idiopathic scoliosis) được điều trị tùy theo tuổi phát bệnh:
·
Vẹo cột sống vô căn tuổi ấu nhi
(infantile idiopathic scoliosis): đa số trường hợp cột sống tự chỉnh mà không cần
bất kỳ điều trị gì. Vì vậy, chỉ cần theo dõi và chụp X quang định kỳ để theo
dõi tiến triển của đường cong. Nẹp thân không hiệu quả trong trường hợp này.
·
Vẹo cột sống vô căn tuổi thiếu niên
(juvenile idiopathic scoliosis): có nhiều nguy cơ tăng nặng nhất trong nhóm vẹo
cột sống vô căn. Nếu vẹo chưa nặng, có thể cho bệnh nhân mang nẹp thân. Mục
đích là ngăn chặn không cho vẹo nặng thêm cho tới khi cơ thể ngừng tăng trưởng.
Vì vẹo cột sống xuất hiện khá sớm và thời gian tăng trưởng của cơ thể còn khá
dài, do đó cần can thiệp điều trị hoặc phải mổ nắn chỉnh.
·
Vẹo cột sống vô căn tuổi thành niên
(adolescent idiopathic scoliosis): là thể vẹo cột sống thường gặp nhất. Nếu vẹo
nhẹ có thể theo dõi và chụp X quang định kỳ, do góc vẹo (góc Cobb) để so sánh
tiến triển. Nếu góc vẹo vẫn dưới 25 độ, không cần điều trị gì thêm. Tái khám
khoảng 3-4 tháng 1 lần để xem vẹo có nặng thêm không ? Chụp X quang định kỳ và
đo góc vẹo mỗi năm. Nếu góc vẹo trong khoảng từ 25-40 độ và bệnh nhân còn trong
giai đoạn tăng trưởng chiều cao, có thể cho mang nẹp thân. Nếu bệnh nhân đã hết
tăng trưởng chiều cao thì không cần mang nẹp thân nữa. Trường hợp góc vẹo trên 40 độ,
cần mổ nắn chỉnh.
Như
đã nói ở trên, vẹo cột sống thường không gây đau lưng. Nhưng nếu bệnh nhân có
đau lưng thì triệu chứng cũng giảm thông qua các biện pháp vật lý trị liệu, mát
xa, tập vận động, bao gồm cả tập yoga. Các biện pháp này chỉ giúp tăng cường sức
mạnh khối cơ lưng chứ không chữa khỏi vẹo và không giúp nắn chỉnh vẹo.
Nẹp
thân dưới nách điển hình trong vẹo cột sống.
Có
nhiều loại nẹp thân khác nhau. Một số loại nẹp bệnh nhân cần mang hầu như 24 giờ
mỗi ngày và chỉ bỏ ra lúc tắm. Số khác bệnh nhân chỉ mang vào ban đêm. Hiệu quả
của nẹp thân cũng tùy từng người và phải theo sự chỉ dẫn của bác sĩ. Nẹp thân
được thiết kế không phải để nắn chỉnh vẹo, mà chỉ để giúp vẹo chậm tiến triển
hoặc dừng tiến triển. Nếu góc vẹo dưới 40 độ khi cơ thể dừng phát triển chiều
cao, thì sau đó vẹo sẽ không có khuynh hướng nặng thêm. Nhưng nếu vẹo trên 40 độ
thì mỗi năm sau đó có khuynh hướng tăng thêm từ 1-2 độ nữa cho đến già và có
nguy cơ ảnh hưởng chức năng tim, phổi. Mục tiêu của mổ là để nắn chỉnh vẹo, ổn
định cột sống, giảm đau và khôi phục đường cong của cột sống về gần như bình
thường.
Hình chụp X quang EOS bệnh nhân nữ
14 tuổi ở trên bị vẹo cột sống vô căn tuổi thành niên (adolescent idiopathic
scoliosis): vẹo cột sống ngực: N4-N11 = 67 độ; vẹo cột sống thắt lưng: N11-TL4
= 68 độ. Mất độ còng sinh lý của cột sống ngực: N4-N12 chỉ còn 1 độ.
Phẫu
thuật gồm việc nắn chỉnh cột sống về càng gần như bình thường càng tốt, bằng dụng
cụ ốc chân cung và thanh nối dọc phía sau, và hàn xương để cố định cột sống
(thường dùng xương ghép lấy từ mào chậu của chính bệnh nhân). Dụng cụ thường để
luôn trong cơ thể không cần mổ lấy ra. Sự phục hồi sau mổ cũng khác nhau tùy từng
người. Sau mổ bệnh nhân được truyền máu (nếu mất máu nhiều), truyền dịch, kháng
sinh, thuốc giàm đau. Bệnh nhân được khuyến cáo tập ngồi và đi lại càng sớm
càng tốt nếu có thể với sự trợ giúp của chuyên viên vật lý trị liệu, để giúp phục
hồi sức mạnh khối cơ.
Hình
X quang EOS sau mổ của bệnh nhân trên.
Giống
như bất kỳ cuộc mổ nào, mổ chỉnh vẹo cột sống cũng có những nguy cơ (dù tỉ lệ rất
thấp), tùy thuộc vào tuổi, mức độ vẹo, nguyên nhân và độ nắn chỉnh cần đạt được.
Ở các nước phát triển, các bác sĩ phẫu thuật dùng máy theo dõi chức năng tủy sống
trong suốt quá trình mổ (Việt Nam chưa có). Nếu có nguy cơ tổn thương tủy sống,
máy sẽ báo động và phẫu thuật viên sẽ giảm thao tác nắn chỉnh để giảm nguy cơ tổn
thương thần kinh. Các nguy cơ khác gồm nhiễm trùng, tổn thương mạch máu, thần
kinh, mất máu, vẹo tiếp tục tăng sau mổ, gãy ốc, gãy thanh nối, cần phải mổ lại.
Nếu
vẹo cột sống do bướu xương dạng xương thì mổ cắt bỏ bướu cũng sẽ làm hết vẹo cột
sống.
4/
Vẹo cột sống do thoái hóa (degenerative scoliosis): thường gây đau lưng và chân
do có liên quan đến bệnh viêm khớp ở cột sống, chèn ép rễ thần kinh gây đau lan
xuống chân. Điều trị bảo tồn gồm vật lý trị liệu, tập vận động, xoa bóp nắn chỉnh
nhẹ nhàng cũng có thể giúp giảm đau. Nếu bệnh không cải thiện với các biện pháp
trên, có thể mổ. Cần chụp X quang và cộng hưởng từ (MRI) cột sống để lên kế hoạch
mổ. Mổ có thể chỉ giải ép thần kinh, cắt bỏ các gai xương chèn ép thần kinh. Một
số trường hợp cần nắn chỉnh vẹo, cố định bằng dụng cụ và hàn xương.
Tiên lượng vẹo cột sống
như thế nào?
Tổ
chức các chương trình khám sàng lọc trong trường học sẽ giúp phát hiện nhiều
trường hợp vẹo cột sống sớm. Điều này giúp việc điều trị một cách nhẹ nhàng, dễ
dàng, chỉ cần theo dõi hoặc mang nẹp thân mà không cần phải mổ trong đa số trường
hợp. Hầu hết bệnh nhân vẹo cột sống đều có thể có một cuộc sống, lao động hoàn
toàn bình thường, có thể mang thai và sanh con hoàn toàn bình thường mà không
có bất kỳ nguy cơ biến chứng nào. Nhưng bệnh nhân có thể tăng nguy cơ đau thắt
lưng lúc mang thai.
Phẫu
thuật xâm lấn tối thiểu trong vẹo cột sống hiện đang còn nghiên cứu, nhưng kết
quả bước đầu rất khả quan, giúp bệnh nhân ít đau, ít mất máu, phục hồi nhanh.
Vẹo cột sống có thể
chữa khỏi không ?
Cho
đến nay, vẹo cột sống không thể chữa khỏi. Có nhiều phương pháp điều trị tốt được
chọn lựa như đã mô tả như trên. Các nhà nghiên cứu đang cố gắng tìm nguyên nhân
của từng loại vẹo cột sống, để giúp điều trị tốt hơn hoặc có thể chữa khỏi bệnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét