Thoái hóa khớp là một
bệnh thường gặp ở các khớp hoạt
dịch, ở những bệnh nhân lớn tuổi.
Khớp thường bị là khớp gối, khớp háng,
khớp bàn tay và khớp bàn ngón chân cái. Các khớp khác
hiếm gặp hơn như khớp cổ chân, khớp
cổ tay, khớp vai.
Khoảng 80% những người
trên 50 tuổi đều có dấu hiệu thoái hóa khớp
trên phim X quang. Nam và nữ đều bị như nhau,
nhưng nam thường thoái hóa khớp trước
tuổi 45, nữ thường thoái hóa khớp sau lứa
tuổi này.
Nguyên nhân:
Thoái hóa khớp nguyên phát (vô căn) chiếm đa số. Trong số này có
những yếu tố liên quan như sau:
1/ Tuổi: phần lớn bệnh
nhân thoái hóa khớp là lớn tuổi, vì thế
người ta cho rằng đây là một phần của
tiến trình thoái hóa theo tuổi tác. Do sụn khớp
cũng bị tổn thương và giảm sức
chịu đựng theo tuổi.
2/ Thể trạng béo phì:
Béo phì không ảnh hưởng
đến các khớp không chịu lực. Đối
với các khớp chịu lực thì béo phì ảnh
hưởng đến khớp gối nhưng ít ảnh
hưởng khớp háng. Đa số làm gối biến
dạng vẹo trong, do mô mỡ của hai đùi to làm
dạng hai chân. Khi đó trọng tâm chịu lực của
khớp gối cũng thay đổi, lồi cầu trong
sẽ chịu lực nhiều hơn lồi cầu ngoài.
3/ Yếu tố di truyền:
Yếu tố di truyền ảnh
hưởng rất phức tạp đến thoái hóa
khớp. Một số bệnh lý khớp háng di truyền
ảnh hưởng đến quá trình thoái hóa khớp
như loạn sản khớp háng bẩm sinh …
Thoái hóa khớp thứ phát: thường theo sau các tình trạng bệnh
hoặc chấn thương sau:
1/ Bất thường giải
phẫu: thoái hóa khớp xảy ra sau bệnh loạn
sản khớp háng, hoại tử vô mạch, vở tróc
đầu xương đùi, gãy xương …
2/ Thoái hóa khớp sau chấn
thương: gãy xương vùng khớp gối, khớp
háng, khớp cổ chân, đứt dây chằng gây lỏng
khớp gối …
3/ Thoái hóa khớp sau các rối
loạn thần kinh trong các bệnh rỗng ống tủy,
tiểu đường, giang mai …
4/ Thoái hóa khớp do những rối
loạn do tăng vận động quá mức.
5/ Thoái hóa khớp do rối loạn
chuyển hóa.
6/ Thoái hóa khớp sau viêm khớp:
viêm khớp dạng thấp, viêm khớp nhiễm trùng …
Triệu chứng:
Mặc dù bệnh nhân có thể
bị thoái hóa nhiều khớp, nhưng thường
chỉ đau ở một hoặc hai khớp,
thường nhất là khớp háng và khớp gối
(chịu nhiều lực nén). Ba triệu chứng chính
của bệnh thoái hóa khớp là đau khớp, cứng khớp buổi
sáng và hạn chế
vận động khớp do giảm dịch
khớp.
Đau khớp: có thể do nhiều nguyên nhân: tăng áp
tĩnh mạch của xương dưới sụn; gãy
các bè xương nhỏ; màng xương bị bẩy lên do
các gai xương; giãn các dây chằng do lỏng khớp,
cơ yếu làm đau nặng thêm; căng bao khớp do
tràn dịch; và viêm bao hoạt dịch khớp.
Cứng khớp buổi sáng: thường thời gian ngắn dưới
30 phút, mức độ như viêm khớp.
Khám bệnh nhân có thể ghi nhận thay đổi dáng đi,
biến dạng lệch trục khớp, hạn chế
vận động khớp, và có thể nghe tiếng
lạo xạo khớp khi thực hiện một số
động tác thụ động do sự ma sát của hai
mặt khớp bị thoái hóa.
Khớp háng: thường bị một bên hơn hai bên,
80% là do sự khiếm khuyết trong quá trình phát triển.
Triệu chứng gồm: đau vùng háng, mấu chuyển,
mặt ngoài mông và đầu trên đùi. Khoảng 20%
bệnh nhân bị đau đầu dưới đùi và
gối. Khớp háng bị mất dần các cử
động xoay trong, duỗi, dạng và gập. Sự
mất sụn khớp có thể sẽ làm chân bệnh
ngắn hơn chân kia. Khi đau nặng, bệnh nhân sẽ
đi nghiêng một bên để giảm đau.
Khớp
háng bình
thường Thoái hóa khớp
háng
Khớp gối: nguyên nhân gây thoái hóa khớp gối thường
do chấn thương vùng gối gãy lồi cầu
xương đùi, gãy mâm chày làm cấp kênh mặt khớp,
tổn thương dây chằng làm mất vững khớp,
trật khớp bánh chè mãn tính và biến dạng vẹo
trong, vẹo ngoài nặng. Phẫu thuật cắt sụn
chêm (là phẫu thuật thường làm hiện nay),
bệnh nhân thường bị thoái hóa khớp gối sau
đó. Viêm khớp thoái hóa có thể ảnh hưởng
đến khoang bánh chè – đùi hoặc cả khoang chày –
đùi trong hoặc ngoài.
Khi thoái hóa ảnh hưởng
cả ba khoang thì thường là thoái hóa khớp thứ phát
nặng. Khớp bánh chè – đùi bị ảnh hưởng
sẽ làm bệnh nhân đau khi đè ép vào xương bánh
chè trong rãnh chè – đùi; như leo lầu, quì gối, gập
gối hoặc ngồi trong tư thế gập gối
trong một thời gian lâu. Sự mất sụn khớp
sẽ làm chùn dây chằng bên và gây mất vững khớp
gối và có thể đưa đến viêm hoạt
dịch khớp do chấn thương. Teo cơ tứ
đầu đùi có thể xảy ra sớm và góp phần
làm mất vững khớp.
Khớp cổ chân, bàn chân: thoái hóa khớp cổ chân nguyên phát rất
hiếm, có lẽ bình thường xương chày chịu
12% trong lượng cơ thể khi đi. Chức năng
chịu lực này còn tăng rất đáng kể khi tăng
lực tì đè.
Khớp bàn ngón chân cái: tỉ lệ thoái hóa nguyên phát khớp bàn ngón
chân cái nhiều tương đương với khớp
liên đốt xa của bàn tay. Tiến trình thoái hóa có
thể xảy ra mà không có sự biến dạng ngón chân cái
hoặc vẹo ngoài ngón chân cái. Vẹo ngoài ngón chân cái
thường ở nữ trung niên, do mang giày ép ngón chân cái
lệch ra ngoài, sau đó làm thoái hóa khớp. Đôi khi thoái
hóa nhiều đến mức làm hạn chế vận
động nặng khớp bàn ngón chân cái, đưa
đến cứng khớp ngón cái. Thường phụ
nữ hay than phiền ngón chân xấu hơn là cảm giác
khó chịu ở ngón chân.
Bàn tay: ở
khớp liên đốt ngón tay, gai xương mọc ra
từ mặt lưng của nền xương đốt
xa có thể nhìn và sờ được những chỗ
lồi này. Các nốt này mọc ra từ từ và
thường không đau, thường thấy nhiều
ở nữ.
Dấu hiệu X quang
ở bàn tay: hẹp khe khớp, gai xương ở
khớp liên đốt gần và xa.
Khớp cổ tay – xương bàn
I:
Khớp này cũng có thể bị
thoái hóa. Khi khe khớp hẹp thì sẽ bán trật khớp
và nhô lên. Đau cũng có thể ở những
người thường sử dụng khớp này (ví
dụ như thợ may).
Chụp X quang khớp:
Bốn dấu hiệu thoái hóa
khớp trên X quang là: hẹp khe khớp (mũi tên trắng
và vàng), gai thoái hóa (mũi tên đỏ), xơ xương
dưới sụn (mũi tên vàng) và nang xương
dưới sụn (mũi tên xanh).
Chụp cộng hưởng từ
(MRI):
Giúp đánh giá các tổn
thương xương dưới sụn, sụn
khớp, sụn chêm, dây chằng và các cấu trúc mô mềm
quanh khớp.
Cộng
hưởng từ chuỗi sung T2 xóa mỡ cho thấy có
sự tăng tín hiệu ở sụn khớp bánh chè do
thoái hóa (mũi tên).
Cộng hưởng từ
chuỗi sung T2 xóa mỡ cho thấy sụn bánh chè tăng
tín hiệu do thoái hóa và có khe nứt chứa đầy
dịch khớp (mũi tên).
Tiến triển của bệnh thoái
hóa khớp: quá trình thoái
hóa khớp điễn ra từ từ qua các giai
đoạn từ nhẹ đến nặng: sự phá
hủy dần sụn khớp, hẹp dần khe khớp và
tạo gai xương thoái hóa, dần dần đưa
đến biến dạng khớp, lệch trục
xương, cứng khớp buổi sáng và giảm dần
tầm vận động khớp.
Điều trị thoái hóa khớp:
Phải có chẩn đoán chính xác
trước khi điều trị, dựa vào phân bố
khớp, dấu hiệu lâm sàng, dấu hiệu X quang,
cộng hưởng từ (MRI), phân tích dịch khớp
(nếu có). Bệnh nhân cần phải được
tư vấn kỹ và chấp nhận một cách tiếp
cận điều trị lâu dài tùy từng giai đoạn
bệnh, gồm những biện pháp sau:
1/ Nghỉ ngơi:
Đau trong thoái hóa khớp có liên quan
đến hoạt động khớp và giảm đau khi
nghỉ ngơi. Một số bệnh nhân cần nghỉ
ngơi tuyệt đối tại giường hoặc
bất động khớp. Bệnh nhân cần học cách
sống và sinh hoạt phù hợp với sức chịu
đựng của khớp bị bệnh. Cần chia
đều thời gian nghỉ ngơi trong ngày, không nên làm
việc kéo dài suốt cả ngày. Đi bộ nhiều
đoạn ngắn hơn là đi một đoạn dài.
Đối với khớp háng và khớp gối bệnh,
cần có các tư thế thích hợp để giảm
đau. Khi leo lầu, cần bước bằng chân lành
trước, sau đó đến chân bệnh.
2/ Giảm cân: đặc biệt đối với
những bệnh nhân đau khớp háng, khớp gối,
đau lưng do thoái hóa khớp. Điều này sẽ giúp
bệnh nhân giảm triệu chứng bệnh.
3/ Vật lý trị liệu:
Nhiệt trị liệu: rất hữu ích làm dịu cơn đau
khớp. Ứng dụng bằng cách tắm nước
ấm, tắm vòi sen ấm, chườm ấm, sóng siêu âm …
Tập vận động: sự đau khớp sẽ làm tổn thương
cơ rất nhanh, do đó cần thiết lập một
chương trình tập luyện nhằm tăng
cường sức mạnh khối cơ quanh khớp.
Tập sau khi dùng nhiệt sẽ dễ dàng hơn, không
những giúp giảm đau mà còn làm giảm co thắt
cơ. Vận động chủ động tốt hơn
thụ động. Đối với cơ chi dưới,
tập nâng vật nặng, trọng lượng nhỏ,
tăng dần. Đạp xe tại chỗ rất tốt,
nhưng bệnh nhân thoái hóa khớp chè – đùi nên cẩn
thận vì động tác gập gối lập đi
lập lại sẽ làm tăng đau.
Kích thích bằng điện từ
trường: có tác dụng
giảm đau trong thoái hóa khớp thông qua cơ chế
điều hòa duy trì thành phần proteoglycan của tế
bào sụn.
Châm cứu: cũng có tác dụng làm giảm đau trong
thoái hóa khớp.
4/ Các thiết bị hỗ
trợ:
Nạng: bệnh
nhân phải được hướng dẫn cách đi
nạng để giảm chịu lực chân đau. Tay
cầm nạng ở bên chân không đau, khi bước
đi thì chống nạng xuống đất cùng lúc
với chống chân đau để trọng lượng
cơ thể dồn vào nạng thay vì vào chân đau.
Giầy: khi
thoái hóa khớp háng có mất sụn khớp nhiều,
thường chân bệnh sẽ ngắn hơn chân kia, mang
giày chỉnh chiều dài ngược lại sẽ giúp
giảm đau khớp khi đi.
Đai nâng đỡ gối: dùng đai gối giúp làm vững thêm khớp
gối tránh bị lật gối đột ngột và giúp
giảm đau.
5/ Thuốc:
Thuốc giúp bệnh nhân giảm
đau, tuy nhiên nếu bệnh nhân không nghỉ ngơi
sẽ làm tổn thương thêm sụn khớp và bệnh
nặng thêm. Đa số bệnh nhân thoái hóa khớp là
lớn tuổi, do đó thường kèm loãng xương và
các bệnh khác kèm theo. Cần kết hợp thêm thuốc
chống loãng xương (nếu có). Khi dùng thuốc
phải chú ý tránh sự tương tác có hại của
thuốc hoặc làm nặng thêm bệnh có sẵn.
Giảm đau: có thể dùng
thuốc giảm đau đơn thuần như
acetaminophen hoặc kết hợp thuốc kháng viêm không
corticoid. Tuy nhiên, hầu hết thoái hóa khớp đều
xảy ra quá trình viêm nên sự kết hợp thuốc kháng
viêm sẽ làm tăng hiệu quả giảm đau cho
bệnh nhân.
Corticoid: có thể dùng liều
thấp giúp giảm đau. Corticoid tại chỗ chỉ
sử dụng khi viêm có tràn dịch khớp, chống
chỉ định trong trường hợp viêm khớp
nhiễm trùng, và không dùng quá 3 lần trong 1 năm / mỗi
khớp. Tuy nhiên ngày nay còn nhiều bàn cãi. Corticoid toàn thân
không hiệu quả.
Sử dụng các thuốc kháng viêm
cần chú ý tác dụng phụ gây viêm - loét dạ dày – tá
tràng.
Các dẫn xuất của morphin
chỉ dùng trong trường hợp bệnh nhân đau
nặng.
Các thuốc giãn cơ có ích trong
trường hợp bệnh nhân bị co thắt cơ.
Các thuốc chống thoái hóa
khớp:
Diacerhein: vừa có tác dụng ức
chế sự phá hủy tổ chức sụn vừa có tác
dụng chống viêm và kích thích sự tạo mô sụn
mới, do đó làm giảm thoái hóa khớp và giảm
đau.
Glucosamin và chondroitin sulfate cũng
được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi
trong điều trị thoái hóa khớp. Glucosamine là nguyên
liệu để tổng hợp proteoglycan trong cơ
thể, tham gia vào quá trình tổng hợp mô sụn khớp,
ức chế hoạt động các men phá hủy sụn
khớp và các gốc tự do phá hủy tế bào sinh
sụn, kích thích sự tạo mô kiên kết xương
và giảm quá trình mất calcium của xương
đồng thời làm tăng sản xuất chất
nhầy giúp bôi trơn khớp. Chondroitin tham gia tạo
cấu trúc màng tế bào, chiếm tỉ lệ lớn trong
chất căn bản của sụn và xương, làm cho
sụn xương có tính chắc và đàn hồi, ức chế
các men làm thoái hóa mô sụn và kích thích tế bào sụn
tổng hợp proteoglycan.
Các chất bảo vệ sụn
khớp (chất ức chế men metalloproteinase [MMP],
yếu tố tăng trưởng cũng được
nghiên cứu và sử dụng.
Vai trò của chất sodium hyaluronate
(còn gọi là dịch khớp nhân tạo):
· Kích thích tạo ra các hyaluronate nội sinh trong
khớp.
· Là rào cản cơ học đối với
bộ phận nhận cảm đau.
· Ức chế chất trung gian gây đau (như
PGE, bradykinin).
· Tác dụng kháng viêm (ức chế hoạt
động các tiến chất gây viêm như cytokin, ức
chế chức năng các tế bào viêm).
· Tác dụng có lợi lên các tế bào miễn
dịch, tác dụng chống oxy hóa.
· Khôi phục đặc tính sinh lý của dịch
khớp (sự bôi trơn của dịch khớp).
Tuy nhiên, sodium hyaluronate thường chỉ
có tác dụng tốt trong các giai đoạn đầu
(độ I, II của Kellgren – Lawrence), khi đã thoái hóa
nặng thì hiệu quả kém.
Huyết tương giàu tiểu
cầu: một phương pháp mới trong điều
trị thoái hóa khớp, có tác dụng làm giảm thoái hóa
khớp, chống viêm và giảm đau, còn đang nghiên
cứu.
6/ Phẫu thuật nội soi
khớp: có vai trò
tốt trong thoái hóa các khớp lớn (như khớp
gối), giúp cắt lọc mô viêm, cắt lọc sụn
chêm bị rách và lấy bỏ vị vật trong khớp.
7/ Phẫu thuật cắt
xương chỉnh trục:
Cắt xương chỉnh
trục ở khớp háng hoặc khớp gối,
thường thực hiện ở những bệnh nhân trẻ,
giúp bệnh nhân giảm đau. Tuy nhiên, sau đó nếu
cần thay khớp thì phẫu thuật thay khớp sẽ
rất khó làm.
Cắt xương chỉnh
trục thực hiện ở bệnh nhân dưới 60
tuổi, năng động còn muốn hoạt động
thể lực. Nguyên tắc của phẫu thuật này là
chuyển vị trí chịu lực từ mặt trong (bên
bệnh) sang mặt ngoài (bên lành) của khớp gối.
Phẫu thuật này tốt nhất khi gối biến
dạng vẹo trong hoặc vẹo ngoài chưa nặng.
Phẫu thuật cắt xương chỉnh trục
sẽ giúp bệnh nhân trì hoãn việc thay khớp
đến khi lớn tuổi.
Chống chỉ định
cắt xương chỉnh trục trong trường
hợp:
· Gối gập không được 90 độ.
· Hạn chế gập – duỗi gối hơn 15
độ.
· Gối bị vẹo trong quá 15 – 20 độ.
· Mất vững do chấn thương hoặc
phẫu thuật trước đó.
· Thiếu cung cấp máu động mạch nặng.
· Thoái hóa cả hai khoang khớp cũng là một
chống chỉ định.
8/ Phẫu thuật thay khớp:
Được thực hiện
trong trường hợp không còn biện pháp điều
trị nào hiệu quả và không thể cắt xương
chỉnh trục được, hoặc đã điều
trị tích cực mà bệnh nhân vẫn không thể tự
sinh hoạt hàng ngày được. Khớp gối nhân
tạo tốt, không biến chứng có thể sử
dụng trung bình 8 – 15 năm (là điều mong đợi).
Nhiễm trùng là một biến
chứng nặng trong thay khớp. Tuy nhiên, ngày nay ít xảy
ra nhờ điều kiện vô trùng tốt và dùng kháng sinh
trước, trong và sau mổ.
Phòng ngừa viêm tắc tĩnh
mạch huyết khối và thuyên tắc mạch phổi
rất quan trọng trong phẫu thuật thay khớp ở
những bệnh nhân thoái hóa khớp chi dưới,
bằng các thuốc kháng đông và cho bệnh nhân vận
động, đi lại sớm ngay khi có thể.
X quang cho thấy bệnh nhân đã
thay khớp gối bên phải. Khớp gối trái bị
thoái hóa, xơ xương dưới sụn, hẹp khe
khớp trong và lệch trục cẳng chân vẹo trong.
X quang: hoại
tử chỏm xương đùi 2 bên, đã thay khớp
háng toàn phần bên phải.
9/ Phẫu thuật hàn khớp:
Phẫu thuật hàn khớp sẽ
giúp bệnh nhân giảm đau, tuy nhiên khớp sẽ
bị cứng, mất chức năng gập – duỗi. Do
đó, chỉ áp dụng trong trường hợp thay
khớp gối thất bại hoặc viêm thoái hóa nặng
ở khớp cổ chân, bàn chân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét