Bác sĩ NGUYỄN VĂN KHOAN - CK II Chấn thương - Chỉnh hình
Đau cổ - vai - gáy là triệu chứng thường gặp, đặc biệt đối với “dân văn
phòng” do ngồi lâu một tư thế, ít vận động. Các bác sĩ chuyên khoa cột sống
thường dùng thuật ngữ “đau cổ - vai – gáy cơ năng; hay đau do tư thế”. Tuy
nhiên, những trường hợp cơn đau dữ dội, không chịu nổi ngay từ đầu từ cổ lan
xuống vai, cánh tay thậm chí đến các ngón tay; hoặc những cơn đau tuy khởi đầu
nhẹ nhàng, nhưng có khuynh hướng nặng dần, lan từ cổ xuống vai, cánh tay đến
bàn ngón tay và kéo dài trên 3 tuần hoặc thậm chí nhiều năm, bất chấp việc nghỉ
ngơi hoặc dùng thuốc giảm đau tích cực – đó không còn là đau cơ năng hay đau do
tư thế nữa, cần khải được khám chuyên khoa cột sống để chẩn đoán và điều trị
đúng nguyên nhân và theo mức độ của bệnh. Bỏ qua những triệu chứng như trên có
thể dẫn đến các hậu quả khó lường, như liệt vận động, rối loạn cơ vòng (bí tiểu
tiện), phẫu thuật trễ sẽ khó đem lại kết quả như mong muốn.
Các bệnh thường gặp nhất của cột sống cổ, theo thứ tự gồm:
1/ Đau cổ - vai – gáy cơ năng (hay đau do tư thế). Đó chính là mức độ nhẹ
nhất, sớm nhất của tổn thương cột sống cổ, thường ở người trẻ, tuổi lao động. Ở
mức độ này thì người ta thấy cơn đau xuất hiện sau một thời gian đứng, hay ngồi
lâu, đặc biệt là làm việc văn phòng, ngồi với máy vi tính … Khi cơn đau xuất
hiện, người bệnh đứng dậy, đi lại, thay đổi tư thế, vươn vai, xoay cánh tay,
xoay trở đầu - cổ nhẹ nhàng, gồng nhẹ cơ vùng cổ - vai … thì cơn đau sẽ biến mất
và người bệnh sẽ cảm thấy dễ chịu ngay. Để phòng ngừa chứng đau này, các bác sĩ
chuyên khoa cột sống khuyên mọi người, đặc biệt là dân làm việc văn phòng, ngồi
với máy vi tính: “chỉ nên ngồi tối đa 30-45 phút, sau đó nên thay đổi tư thế,
đi lại, tập vận động nhẹ nhàng cơ cổ, vai, cánh tay … trong khoảng 5-10 phút
rồi ngồi làm việc tiếp. Đặc biệt, tư thế ngồi phải thẳng lưng, thẳng cổ, màn
hình máy vi tính phải để ngang tầm mắt, cách khoảng 60 cm, hai vai dang rộng
thoải mái và ghế có tựa lưng êm đến đỉnh đầu càng tốt”.
2/ Đau do rễ thần kinh bị chèn ép có đặc đểm là đau cổ, đau lan ra vai,
xuống cánh tay – cẳng tay – bàn tay và đến các ngón tay. Tê hay các dị cảm khác
kèm theo dọc đường đi của rễ thần kinh bị chèn ép. Thường gặp nhất ở độ tuổi 40-50,
hoặc đôi khi trẻ hơn. Đau tăng lên khi bệnh nhân cúi cổ, ngửa cổ hoặc xoay cổ
qua trái, qua phải. Nếu thần kinh bị chèn ép nặng, kéo dài sẽ dẫn đến teo cơ
cánh tay, bàn tay. Nhiều trường hợp bệnh nhân liệt vận động một tay, hiếm khi
liệt tứ chi. Cơn đau nhiều khi dữ dội khiến bệnh nhân không
nằm được, rất khó chịu. Thủ phạm gây
chèn ép rễ thần kinh ở cổ thường gặp là: thoát vị đĩa đệm cột sống cổ (do
bệnh lý hoặc sau chấn thương), thoái hoá cột sống cổ (chèn ép do gai xương
thoái hóa hoặc do phì đại các cấu trúc dây chằng). Đa số trường hợp chỉ một rễ
bị chèn ép và chỉ một bên cổ, vai, cánh tay đau. Một số ít trường hợp xảy ra
hai tầng bệnh với hai rễ thần kinh đau cùng bên.
3/ Bệnh lý tủy cổ do
thoái hóa: thường thấy ở độ tuổi 50-60 hoặc hơn. Thường bệnh nhân biểu hiện đau
cổ - vai – gáy kéo dài nhiều năm, nặng dần, không điều trị đúng chuyên khoa.
Triệu chứng thường gặp của bệnh lý tủy cổ mạn tính do thoái hóa là: tê các
ngón: tê 2 ngón (áp út và ngón út), tê 3 ngón (cái, trõ, giữa) hoặc tê cả năm
ngón tay. Tê thường thấy ở cả ngón tay mặt lưng hay lòng khác tê đầu năm ngón
tay trong bệnh viêm khớp dạng thấp. Tê từ vai lan xuống cánh tay, cẳng tay, bàn
tay và đến các ngón tay; tê thân mình; tê cẳng bàn chân; mất cử động khéo léo các
ngón tay (khó cầm đũa gắp thức ăn, cầm muỗng dễ hơn nhưng dần dần cũng khó
khăn; chữ viết xấu dần; trở nên vụng về khi cài nút áo). Cánh tay, cẳng tay,
bàn tay yếu dần (bệnh nhân không cầm nắm được đồ vật, khó cử động cổ tay, sấp
ngửa cẳng tay, gập duỗi cẳng tay yếu dần; bắt tay nhau lỏng lẻo...) các triệu
chứng này do liệt vận động một phần hai tay. Dáng đi kiểu co giật giống rô bô
do liệt vận động hai chân (bệnh nhân yếu dần hai chân, đi lại khó khăn hơn trên
đường bằng phẳng; khi bệnh diễn biến nặng bệnh nhân không thể lên xuống thang
một mình, không đi xa được). Tăng các phản xạ tự động tủy (các phản xạ gân
xương). Cuối cùng là rối loạn tiêu tiểu (nặng nhất là bí tiểu).
Bác sĩ chuyên khoa cột
sống chẩn đoán bệnh lý tuỷ cổ mạn tính khi phối hợp khám lâm sàng thấy rõ các
triệu chứng trên, phát hiện các hội chứng tháp tứ chi (Hoffmann, Babinski, tăng
phản xạ gối, gót, khám phát hiện bọng đái thần kinh…) và hình ảnh học y khoa
của các nguyên nhân bệnh lý nêu trên.
Khi các triệu chứng
của bệnh lý rễ thần kinh cổ bị chèn ép hay bệnh lý tủy cổ ổ mức độ nhẹ, thì
điều trị bảo tồn, gồm nghỉ ngơi, tránh các động tác sai tư thế làm bệnh trầm
trọng thêm như vặn xoắn nghiêng xoay quá mức cột sống, kéo cột sống cổ thường
không hiệu quả. Thuốc giảm đau, kháng viêm, dãn cơ … sử dụng phối hợp theo chỉ định của bác sĩ
chuyên khoa.
Phẫu thuật chỉ đặt ra
khi bệnh nhân đau nặng dần, điều trị bảo tồn không hiệu quả; đau nặng, cấp tính
khiến bệnh nhân không chịu nổi; liệt vận động, teo cơ; rối loạn cơ vòng (bí
tiểu). Việc phẫu thuật mang lại kết quả tốt cho bệnh nhân hay không tùy thuộc giai
đoạn và mức độ nặng của bệnh. Bệnh nhân được mổ đúng chỉ định, đúng kỹ thuật,
chăm sóc sau mổ tốt bởi bác sĩ khéo léo, có kiến thước và kinh nghiệm sẽ mang
lại hiệu quả tốt nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét